HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN
Hotline: 0918148410

Call
 
LIÊN KẾT WEBSITE
THỐNG KÊ TRUY CẬP
mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counterHôm nay499
mod_vvisit_counterHôm qua215
mod_vvisit_counterTuần này499
mod_vvisit_counterTuần trước890
mod_vvisit_counterTháng này4157
mod_vvisit_counterTháng trước9497
mod_vvisit_counterTất cả917739

Hiện có: 11 khách trực tuyến

III - NHÌN THẤY KHẢI TƯỢNG.

III -  NHÌN THẤY KHẢI TƯỢNG.

(Mathiơ 9:35-38)

Khi chúng ta tình nguyện muốn sống cho Chúa, quỳ gối cầu nguyện tan vỡ trước tình yêu của Chúa, và nài xin Chúa xử dụng cuộc đời còn lại của mình để làm chứng nhân cho Chúa. Muốn hầu việc Chúa, người ấy phải mang tâm tình của Chúa Jesus. Người đó phải cầu xin Chúa thay đỗi tấm lịng, tm trí của mình giống như của Cha Jesus, vì biết r rằng tất cả từ bản năng của con người đều l xấu xa.  Để mang được tâm tình của Đấng Christ đã có, người ấy phải được Đức Thánh Linh mở mắt để nhìn thấy khải tượng. KHẢI TƯỢNG là cái nhìn của tâm trí, một thực tế bị ám ảnh bởi tâm trí, tạo nên một động lực mạnh để hành động. Đức Chúa Trời thường dùng khải tượng để sai phái hoặc phán bảo cho các thánh đồ. Đối với phi-e-rơ  khi ông đang kiêng ăn cầu nguyện trên mái nhà thì  ông bị ngất trí. Đức Chúa Trời đã cho ông nhìn thấy một khải tượng: Có một cái khăn cột chéo trong đó có nhiều thú vật và côn trùng và có tiếng từ trời phán với ông rằng: “Hỡi Phierơ, hãy dậy làm thịt và ăn”, song Phi -e -rơ thưa : “Lạy Chúa tôi chẳng ăn giống gì dơ dáy, chẳng sạch bao giờ”, có tiếng phán lần thứ hai rằng: “Phàm vật chi Đức Chúa Trời đã làm cho sạch thì chớ cầm bằng dơ dáy”, tiếng đó lặp lại ba lần rồi vật ấy liền bị thâu lên trời. (Công vụ 10:9-15). Đức Chúa trời đã phá hủy  định kiến của Phi-e-rơ bằng một khải tượng. Sau đó Chúa dùng ông đi đến truyền Tin Lành cho gia đình Cọt Nây - một sĩ quan Ý tin Chúa.

 

Đối với Phao lô, trong một đêm Đức Chúa Trời cho ông thấy khải tượng : Một người Ma-xê-đoan đến nài xin : “Hãy qua Ma-xê-đoan mà cứu chúng tôi”. Sáng hôm sau ông cùng đoàn truyền giáo quyết định qua xứ Ma-xê-đoan và tại đó hội thánh Phi líp và nhiều hội thánh Âu châu được thành lập (Công vụ 18:9,10).

 

Chúng ta hãy xem kinh thánh Mathiơ 9:35-38. Tại sao Chúa Jêsus không mỏi mệt khi đi từ làng này đến làng khác để rao giảng Tin Lành và chữa lành nhiều thứ tật bệnh? Tại sao Ngài có lòng nhiệt thành để đi rao giảng Tin Lành? Tại sao Chúa nhìn thấy đoàn dân đông thì động lòng thương xót? Vì trong cặp mắt thuộc linh của Ngài, Ngài luôn nhìn thấy đoàn dân đông khốn cùng, như chiên không có người chăn. Ngài không yên nghỉ được. Hính vì vậy, muốn mang tm tình của Cha Jesus, thì người đó phải có tâm trí để nhìn thấy điều m Cha Jesus thấy. Nhìn thấy KHẢI TƯỢNG là điều kiện để hành động. Chúa muốn chúng ta phải nhìn thấy khải tượng trước khi đi ra. Vì đó là điều kiện duy nhất để sản sinh ra tình yêu thương giống như chúa Jesus. Khải tượng đó là gì ?

1) Nhìn thấy mọi người đang khốn cùng.

Chúa Jêsus thấy đoàn dân đang khốn cùng, có phải là vi  thấy họ nghèo đói, khổ sở, bị áp bức trong xã hội? Có phải họ đang sống trong bệnh tật khốn khổ cần được chữa lành? Những khốn khổ đó chỉ tạm trên trần gian này, và nếu như vậy thì Chúa Jesus vẫn là người nghèo khổ, đang bị áp bức, Ngài bị lên án của người Pha-ri-si, thầy thông giáo. Chắc chắn trong cái nhìn của Chúa Jesus không phải như vậy,  mà con mắt thuộc linh của Ngài nhìn thấu tận nơi địa ngục là chốn HÌNH KHỔ, như người nhà giàu được Chúa kể trong lu ca 16:19-31. Dù trên trần gian ông là người giàu ăn sung mặc sướng, bên cạnh có người nghèo là La-xa-rơ, cô đơn không thân nhân, không có gì ăn chỉ lượm những miếng bánh vụn trên bàn người giàu rơi xuống. Nhưng khi 2 người chết, người nghèo là La-xa-rơ được đem vào lòng của Áp-ra-ham là nơi được an ủi, nơi đó tượng trưng cho thiên đàng. Còn người giàu chết thì phải ở nơi địa ngục, chịu khổ hình ở trong hồ lửa đau đớn qúa đỗi, ông kêu xin cho một giọt nước để làm mát lưỡi mà cũng không được. Nơi đó được Chúa Jesus mô tả là nơi “khóc lóc và nghiến răng” Nỗi đau đớn đó kéo dài đến đời đời. Tại nơi hình khổ đó, người nhà giàu này không cầu xin được một ân huệ nào. Ông phải chấp nhận vì khi còn sống ông sống trong sự ích kỷ, vô tín, khước từ lòng tin vào Chúa của mình ông phải chấp nhận bản án. Dù ông phải chấp nhận ở nơi khổ hình. Nhưng tại đó, ông nhớ đến năm anh em của ông còn sống trên trần gian, ông không muốn họ sẽ vào chốn hình khổ này như ông. Cho nên, ông cầu xin cho La Xa Rơ sống lại để đến nói với những anh em tôi biết rõ sự thật tôi đang chịu nơi hình khổ này, để họ tin Chúa Jesus. Nhưng Áp Ra Ham nói rằng: “Họ đã có có đấng tiên tri, có thầy dạy luật. Họ phải nghe các đấng ấy”. Ngày nay Chúa dùng Hội thánh còn tồn tại trên trần gian này là để rao giảng Tin Lành cho người đang hư mất. Ngay cả người ở địa ngục vẫn ngày đêm hy vọng một ai đó đến nói với người thân của mình về Chúa Jesus để họ được cứu ra khỏi lửa địa ngục này. Chúa Jesus đã thấy những hình ảnh khốn cùng đó, cho nên Ngài có lòng thương xót, Ngài đã khóc cho thành Giê-ru-sa-lem vô tín, Ngài đi từ nơi này đến nơi khác để giảng về nước Đức Chúa Trời. Ngày nay, chúng ta phải nhìn thấy được khải tượng khủng khiếp đó và nó sẽ cứ ám ảnh trong tâm trí chúng ta đến nỗi chúng ta không thể yên nghỉ được. Hình ảnh hình khổ, khốn cùng của người thân mình, bạn hữu, dân tộc mình chưa tin Chúa, làm cho linh hồn chúng ta đau đớn xót xa, đến nỗi chúng ta phải khóc lóc kêu cầu xin Chúa hành động vì hàng triệu, hàng tỉ người đã, đang và sẽ đến đó đời đời. Chúng ta được thoát ra khỏi địa ngục khủng khiếp đó rồi nên chúng ta yên long được ư? Trong khi còn bao nhiêu người đang bị ĐÙA đến chốn hình khổ. Nhiều khi không nhìn thấy thực tế đó nên :

- Chúng ta vẫn sống vô tình, sống thản nhiên, sống hưởng thụ, ai chết mặc ai.

- Chúng ta vẫn sống một đời sống tội lỗi tranh đua hơn thiệt và mong ước nhiều tiền hơn và tranh chấp giống như người thế gian. Thậm chí có người gây vấp phạm cho người khác mất đức tin.

- Có người tin Chúa bao nhiêu năm rồi nhưng không hề cầu nguyện than khóc, hoặc nói về Chúa cho những người bạn, người thân của mình.

Tại sao? Tại sao chúng ta vẫn sống mà trong lòng không chút xót thương? Vì chúng ta chưa nhìn thấy sự khốn cùng nơi khổ hình của những linh hồn tội nhân.

Châm ngôn 24:11,12 chép: “Hãy giải cứu kẻ bị đùa đến sự chết. Chớ chối rỗi cho người đang đi đến chốn hình khổ. Nếu con nói: Chúng tôi chẳng biết gì đến; Thì Đấng cân nhắc lòng người ta, há chẳng xem xét điều ấy sao? Đấng gìn giữ  linh hồn con, há không biết đến ư?..”. Rõ ràng, những người được cứu vẩn sống thái độ vô tư, không hành động để cứu nhiều tội nhân ra khỏi chốn hình khổ, thì hành động đó không phải nhỏ đối với Đức ChúaTrời.

Khi nhìn thấy một người chưa tin Chúa qua đời mà họ chưa được nghe về Tin Lành chúng ta có đau đớn không? Chúng ta có nhận thấy họ không còn có cơ hội để được cứu, và họ sẽ ở nơi chốn hình khổ đời đời không? Một số người vẫn vô tư , an nhiên trước những người thân của mình chưa được cứu, thậm chí cả con cái của mình. Thậm chí doing vợ gả chồng cho người ngoại khi thấy họ giàu sang trên đời này. Nếu không cảm nhận được sự đau đớn, khốn cùng của những tội nhân ở nơi hồ lửa thì làm sao chúng ta nói về những điều kinh khiếp sẽ trừng phạt kẻ có tội? Làm sao chúng ta có thể quan tâm đến những người chưa được cứu? Đó là chúng ta chỉ nói về địa ngục trên lý thuyết  và đùa giỡn với lửa địa ngục mà thôi! Không một người nào khi nhìn thấy người mù đang đi dần xuống hố sâu mà làm ngơ, hay đứng đó nhìn để cười. Nếu như vậy chắc chắn người đó không còn lương tâm nữa. Nhưng tuyệt nhiên họ sẽ chạy nhanh lại để nắm tay người mù đắt ra khỏi hố sâu đó.

David Brainerd đã nhìn thấy sự thực đau đớn về tình trạng tội ác của dân da đỏ. Đọc trong cuốn nhật ký của ông chúng ta sẽ thấy ông đã tận hiến tất cả sức lực để kiêng ăn cầu nguyện không kể ngày đêm cho những linh hồn hư mất. Ông nói: "Quả thật, tôi không lo mình sống ở đâu, sống cách nào, hoặc phải chịu khó nhọc chừng nào, miễn là tôi dắt đem được nhiều linh hồn đến cùng Đấng Christ". Ông chấp nhận chịu lạnh cóng để được thổn thức cầu nguyện .Cho đến cuối đời dù chỉ mới ba mươi tuổi nhưng ông đã được nhìn thấy kết quả thật mĩ mãn. Hàng ngàn người dân da đỏ đến với Chúa. Động lực  khiến ông có thể sống như vậy là vì ông đã nhìn thấy khải tượng về hồ lửa. Tai thuộc linh ông nghe tiếng rên siết, kêu la trong lửa địa ngục khiến ông không thể yên nghỉ được. (Ma thi ơ 25:30).

Thật vậy, nếu tâm trí chúng ta bị ám ảnh khải tượng về nổi đau đớn, rên siết của những linh hồn tội nhân đang ở địa ngục, thì chắc chúng ta đau đớn, thương xót đến nổi phải khóc lóc kêu xin Chúa như tiên tri Giê-rê-mi đã thấy sự diệt vong của con giá Giê-ru-sa-lem. Ông ta khóc ngày và đêm. (Ca thương 3).

2) Nhìn thấy chiên không có người chăn

Chúng ta hãy nhìn vào hình ảnh một con chiên  lạc bầy giữa núi rừng lạnh cóng, cô đơn, đói khát và có nghuy cơ làm mồi cho thú dữ, đó chẳng phải là khải tượng để chúng ta hành động sao?

Dân tộc Do Thái họ vẫn có tôn giáo, họ vẫn hãnh diện  là dân được lựa chọn. Họ cũng có vật chất, tiền bạc đủ để hưởng thụ. Nhưng trong cái nhìn của Chúa Jêsus, họ như chiên không có người chăn. Thật khốn khổ !“Khi ngài thấy những đám dân đông, thì động lòng thương xót,vì họ cùng khốn ,tản lạc như chiên không có  người chăn.”(Ma thi ơ 9:36). Chính vì vậy Chúa không yên nghỉ được. Ngài luôn đi kiếm từng con chiên dắt về chuồng.

Mọi người trên trần gian này là con chiên của Chúa. Những người chưa tin Chúa là những con chiên lạc. Chúng ta được ở trong ràng của Ngài, hưởng thụ sự chăn dắt của Chúa. Nhưng hãy nhìn ra để thấy còn quá nhiều chiên lạc đang bơ vơ, đau khổ. Đức Chúa Trời đã dùng tiên tri Ê-xê-chi-ên than lên "Những chiên ta đi lạc trên mọi núi và mọi đồi cao. Những chiên ta tan tác trên cả mặt đất, chẳng có ai kiếm, chẳng có ai tìm” (Ê-xê-chi-ên 34:6).

Chúa Jesus có kể một câu chuyện : Trong đàn chiên có một trăm con chiên nhưng chỉ mất một con, tức là 1% mà người chăn  vẫn phải đi tìm con ấy cho kỳ được (Lu ca 15:4). Người chăn đó đang tưởng tượng rằng con chiên đáng thương đó đang rơi vào bầy thú dữ đang cấu xé chăng. Người đó không thể yên nghĩ được, sẵn sàng ra đi trong đêm tối, quyết định tìm cho kỳ được, không tìm được không về. Nhờ sự kiên trì, chịu khổ đó, người chăn đã tìm được con chiên bị lạc mất. Vui quá! Ông trở về mới bầu bạn đến mở tiệc ăn mừng. Và Chúa Jesus phán rằng thiên sứ trên trời cũng vui mừng lắm khi một kẻ có tội biết ăn năn. Trong khi đó ngày nay khi nhìn vào dân số Việt Nam, năm 2007 trên 84 triệu người thì chỉ có trên hai triệu người tin Chúa. Chúng ta thử  tính xem còn bao nhiêu người hư mất? Nói như vậy thì dân số Việt Nam còn hơn 97% con chiên lạc. Điều này há làm chúng ta yên nghỉ được sao? Chỉ có 1% con chiên bị mất mà tấm lòng người chăn mất ngủ và phải đi tìm cho kỳ được. Thế thì tại sao ngày nay chúng ta vẫn sống một cách bình thản, vô tâm khi hơn 97% người đi lạc?! Chúng ta đã ở trong chuồng chiên của Chúa, hưởng thụ sự đầy đủ trong sự chăn dắt của Chúa, như chúng ta vẫn thường hát thi thiên 23 mà vua Đa Vít đã ca ngợi. Chúng ta hưởng thụ tình yêu của Đấng Christ, nhưng còn bao nhiêu chiên lạc cần chúng ta đưa về chuồng. Cần chúng ta chỉ đường để vào chuồng chiên của Chúa, chúng ta đã biết: chỉ có một con đường cứu rỗi duy nhất là Chúa Jêsus.  Chúa Jesus phán:“Ta là cái cửa, nếu ai bởi ta mà vào thì sẽ được cứu rỗi; họ sẽ vào ra và gặp đồng cỏ” (Giăng 10:9) . Chúng ta chỉ cần quan tâm, giới thiệu về Chúa Jêsus để mọi người được vào chuồng chiên của Chúa thì sung sướng biết mấy. Chúa Jesus đã đến thế gian cách đây hơn 2000 năm để đi tìm những con chiên lạc và Ngài phán rằng: “ Ta là người chăn hiền lành, người chăn vì chiên mình phó sự sống mình” (Giăng 10:11). Và ngày nay, Chúa cần chúng ta đi tìm những  con chiên lạc chung quanh ta dắt đem chúng về chuồng. Nếu không nhìn thấy những con chiên đang đi lạc thì  làm sao chúng ta tìm chiên lạc được?

3) Thấy đồng lúa đã chín vàng. (Ma-thi-ơ 9: 37,38)

Ngài bèn phán cùng môn đồ rằng: “Mùa gặt thì thật trúng, song con gặt thì ít. Vậy, hãy cầu xin chủ mùa gặt sai con gắt đến trong mùa của mình”

Người nông dân khi làm ruộng, lúc lúa  chín vàng thì chúng ta mới lo gặt lúa cho vào bồ. Nếu gặt không kịp thời vụ, lúa  bị rơi rụng, chim, chuột sẽ ăn mất. Cho nên trong mùa gặt, mọi người đều phải tập trung, dồn hết sức để gặt cho xong. Với hình ảnh này ta thấy gặt lúa là việc cấp bách  cần phải làm ngay. Cũng vậy khi đồng lúa thuộc linh đã chín vàng sẵn cho mùa gặt thì chúng ta cũng không thể chần chờ, hẹn lần hẹn lữa.Đây là vịêc cấp thời.

Chúa Jêsus gặp một người đàn bà Sa-ma-ri tại bên giếng Si-kha trong lúc Ngài đang đói và khát nước, nhưng Ngài  không bỏ lỡ cơ hội làm chứng cho người đàn bà ấy. Trong lúc 12 giờ trưa, Ngài đến để xin nước của người đàn bà nầy, dù nhu cầu thể xác của Ngài là cần thiết, nhưng Chúa thấy nhu cầu tâm linh của người đàn bà nầy cần được nước sự sống, cần được cứu hơn. Cho nên thay vì xin nước, Chúa Jesus giới thiệu nước hằng sống cho người đàn bà khốn khổ trong tội lỗi này. Ngài phán:“Phàm ai uống nước này vẫn còn khát mãi, nhưng uống nước ta cho sẽ thành một mạch nước văng ra cho đến sự sống đời đời”. Cuối cùng bà tin Ngài là Đấng Mêsia. Bà vui mừng quá đến nỗi quên mục đích múc nước của mình. Bà đã bỏ cái vò bên giếng chạy vào thành Sa-ma-ri giới thiệu với mọi người về Chúa Jesus, và mọi người trong thành Sa ma ri chạy ra xem và đã đến cùng Chúa Jesus. Trong khi đó, các môn đồ vì bụng đói đã đi vào chợ mua đồ ăn, trở về  các môn đồ mời Chúa Jêsus cùng ăn nhưng Ngài không màng đến. Ngài phán rằng: “đồ ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Đấng đã sai ta đến và làm trọn công việc của Ngài. Các người há chẳng nói rằng còn 4 tháng nữa tời mùa gặt sao? Song ta nón cùng các ngươi: Hãy nhướng mắt lên và xem đồng ruộng đã vàng sẵn cho mùa gặt”( Giăng 4:34-36). Trong suy nghĩ của các môn đồ thì còn bốn tháng nữa mới tới mùa gặt, nhưng Chúa bảo họ phải nhướng mắt lên để họ thấy rằng : Mùa gặt đã chín vàng. Tại sao các môn đồ lại không thấy được điều đó? Bởi vì: Mắt thuộc linh  của họ không mở ra. Trước mắt họ bây giờ  chỉ nghĩ đến thức ăn, đồ uống. Vì bụng đang đói nên họ chỉ nghĩ đến nhu cầu vật chất đời nầy mà không  thấy nhu cầu thuộc linh  là cần thiết chăng? Và phải chăng đó cũng là cái nhìn của chúng ta? Việc rao giảng Tin lành chưa cần thiết, bây giờ là giải quyết vấn đề vật chất, nhu cầu thể xác còn quá nhiều. Chúng ta bận rộn với nhiều việc trần gian. Con mắt của chúng ta đang nhìn xuống, nhìn vào những cái tầm thường của trần gian mà không thấy cái vĩnh cửu của linh hồn. Chúng ta đang chạy đua với cuộc sống vật chất, nhưng  Chúa bảo chúng ta HÃY NHƯỚNG MẮT LÊN. Cặp mắt thuộc linh của chúng ta phải mở ra mới có thể nhìn thấy khải tượng. Có thể lắm bây giờ chúng ta đang ngủ trên vật chất xa hoa, chạy theo với bao nhiêu nhu cầu thể xác cần được đáp ứng. Và điều đó khiến chúng ta phải ngủ trong mùa gặt. “ Ai thu trử trong mùa hè là con trai khôn ngoan. Song kẻ ngủ trong mùa gặt là con trai gây cho sỉ  nhục.” (Châm ngôn 10:5). Thời điểm nào được gọi là mùa gặt thuộc linh? Đức Thánh Linh được ban xuống trong ngày lễ ngũ tuần tức là lễ mùa gặt của dân Do Thái. Ngài cũng muốn nói với môn đồ rằng: từ ngày Đức Thánh Linh được ban xuống thế gian, Ngài sẽ cáo trách thế gian về tội lỗi, về sự công bình để dẫn mọi tội nhân xưng nhận Chúa Jesus là Chúa. Mùa gặt đã đến, lúa đang chín vàng sẵn cho mùa gặt, nhưng con gặt thì  ít. “Hãy Cầu xin chủ mùa gặt sai con gặt đến trong mùa của mình” Chủ con gặt là ai?  Đó chính là Đức Thánh Linh được ban xuống ở trong môn đồ để thúc dục, sai phái, ban quyền năng cho các môn đồ để làm chứng về Chúa Jesus. Khi chúng ta đã có Đức Thánh Linh trong lòng rồi nhưng tại sao chúng ta không ra đi làm chứng nhân. Phải chăng chúng ta đã ngủ trong mùa gặt?, tức là ngủ trên sự đam mê vật chất, chính sự đam mê đó đã làm cho nhiều người phải hư mất, thay vì làm sáng danh Chúa, cuộc sống họ đã làm sĩ nhục danh Chúa.

Hãy cầu nguyện xin Chúa mở mắt cho chúng ta nhìn thấy khải tượng, nhìn thấy sự đau đớn của bao nhiêu anh em trong hồ lửa. Khi chúng ta nhìn thấy nhiều con chiên lạc, nhìn thấy đồng lúa chín vàng đã sẵn cho mùa gặt thì chính điều đó khiến cho chúng ta quyết chiến đấu nhiều hơn trong sự cầu nguyện. Hy sinh nhiều hơn trong chiến trường thuộc linh để giải cứu kẻ bị đùa đến chốn hình khổ. Chúng ta ra đi trong khải tượng thì chúng ta mới có thể vừa đi vừa khóc đem giống ra gieo, chắc sẽ gặt hái kết quả vui mừng. (Thi  thiên 128:5,6).A-MEN


Đọc tiếp:

IV. Có tình yêu thương.

V.Trang bị và kinh nghiệm lời Đức Chúa Trời.

VI.Đời sống cầu nguyện.

VII.Đầy dẫy Đức Thánh Linh.

------> Phần 2: CHỨNG ĐẠO

 
VIDEO
HÌNH ẢNH NỔI BẬT





























 
thiet ke web thiet ke website web gia re lam web dep thiet ke web pro thiet ke web chuyen nghiep website gia re thiet ke website gia re thiet ke website chuyen nghiep thiet ke website pro thiet ke web gia re website chuyen nghiep web chuyen nghiep website web web site cong ty thiet ke web web 100$ website free web free website mien phi web mien phi cho thue xe thue xe can thue xe xe du lich thue xe du lich thue xe gia re thue xe hoi thue xe hoa thue xe cuoi thue xe du lich dich vu thue xe thue xe dich vu thue xe tu lai thue xe co tai thue xe thang hop dong thue xe cho thue xe gia re thue xe doi moi thue xe toyota thue xe ford thue xe camry thue xe honda sua may tinh sua laptop sua chua may tinh sua may tinh gia re bao tri may tinh bao tri mang bao tri he thong sua may tinh tai nha sua may tinh tan noi thiet ke mang thi cong mang mang wifi trien khai he thong mang may tinh may tinh IBM may tinh bo may tinh de ban nuskin my viet nuskin viet nam nuskin may rang ca phe ca phe sach ca phe nguyen chat