III. GIẢI PHÁP CỨU RỖI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
III. GIẢI PHÁP CỨU RỖI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
PHƯƠNG PHÁP GIẢI CỨU (Giăng 3:16)
Đức Chúa Trời yêu thương tội nhân. Ngài đã giải quyết vấn đề tội lỗi cho con người. Ngài muốn nối kết lại mối thông công đã mất. Ngài muốn cứu con người ra khỏi lửa địa ngục.
Đức Chúa Trời là Đấng công bình, có tội là phải bị trừng phạt, nhưng Ngài cũng là Đấng yêu thương. Yêu thương là phải tha thứ. Như vậy nếu trừng phạt thì không còn yêu thương. Nếu vì yêu thương mà tha thứ thì vi phạm luật công bình của chính Ngài. Và Kinh Thánh đã chép: "Không có sự đổ huyết thì không có sự tha thứ" (Hêbơrơ 9:22b). Chính vì vậy Đức Chúa Trời phải giáng sinh, mặc thân xác của loài người, chịu chết đau đớn trên thập tự giá để gánh thay cho bản án tội của loài người. Qua sự hy sinh đó, Đức Chúa Trời mới có thể công bố tha thứ tội lỗi cho con người (Rôma 5: 8-1).
Ví dụ: Nếu tôi (chứng nhân)nợ anh(thân hữu) mười triệu đồng và không đủ sức trả nợ. Dẫu cha tôi là quan án nhưng nếu tôi không trả nợ thì chắc chắn bị tù. Vì ông phải xử theo luật công bình. Nhưng để bày tỏ lòng yêu thương, cha tôi đã sẵn sàng trả cho anh mười triệu thay tôi. Như vậy, tôi và anh hết nợ dù rằng, tôi không trả cho anh đồng nào. Vì sao? Vì Cha tôi đã trả thay.
Đức Chúa Trời giải quyết cho vấn đề tội lỗi của con người cũng giống như vậy. Vì tình yêu thương Đức Chúa Trời đã ban Chúa Jesus, Chúa Trời giáng sinh thành nhục thể để chịu chết trả án thay cho con người.
Chứng minh Chúa Jesus có mối tương quan với mọi người:
1. Chứng minh Chúa Jesus là Đức Chúa Trời.
Sáng thế ký 1:1 chép : “ Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất”. Ban đầu của vũ trụ là con số 1. Chính Đức Cha Trời l Đấng đầu tin v cuối cng. Ngi l cội nguồn của sự hiện hữu vũ trụ, muơn vật v con người. Nhưng thực sự chúng ta không biết Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên vũ trụ đến nay được bao nhiêu tỉ năm? Nhưng từ khi Đức Chúa Trời vô hình, Thần linh giáng sinh làm người để cứu chuộc loài người ra khỏi sự án phạt. Cho nên, năm sinh của Chúa Jêsus: trở nên năm số 1 của công nguyên, “Ban đầu có Đạo, Đạo ở cùng Đức Chúa Trời và Đạo là Đức Chúa Trời”( Giăng 1:1; Côlôse 1:15-18). Như vậy chữ “ban đầu trong sáng thế ký 1:1 được hiện hữu trong sự kiện giáng sinh của Chúa Jesus. ( Giăng 1:1) Uy quyền của Chúa Jesus là số một của công nguyên. Ngài là Đức Chúa Trời Giáng Sinh làm người, cho nên năm sinh của Chúa Jesus trở nên năm thứ nhất, sự giáng sinh của Chúa Jesus chia đôi dòng lịch sử của nhân loại.
Từ đó:
- Lịch sử vũ trụ tính từ năm sinh của Chúa Jesus. Từ năm số 1 ( Năm Chúa giáng sinh) tính đến nay là 200… và từ số 1 của công nguyên tính về trước của lịch sử vũ trụ.
- Mỗi gia đình đều treo lịch, năm hiện hữu trong lịch là niên hiệu của Chúa Jêsus. Trong sinh hoạt mỗi ngày của mọi người trên thế giới đều phải xác định ngày tháng năm. Như vậy, mọi sinh hoạt của con người đều lệ thuộc vào Chúa Jesus.
- Mỗi người sinh ra đều phải có giấy khai sinh tính từ năm Chúa giáng sinh. “Tôi sinh cách Chúa Giáng sinh là 1958 năm. Anh sinh ra năm 1975 năm tức là anh sinh cách Chúa Giáng sinh là 1975 năm. Như vậy, Mỗi người sinh ra đời phải tính từ năm sinh của Chúa Jesus.” Đức Chúa Trời muốn nói với mỗi người rằng: Từ khi sinh ra đến khi từ giả cỏi trần này, con là người có tội. Chúa Jesus đến thế gian để trả thay bản án tội cho con. Con cũng có phần trong sự ân xá tha tội của Đức Chúa Trời để mọi người tin Chúa Jesus điều hưởng được sự sống đời đời.. Vì vậy, cuộc đời của mọi người được gắn chặt vào sự kiện Chúa Giáng sinh.”
Mọi người trên thế giới, không phân biệt tôn giáo, màu da, chủng tộc, tiếng nói, đều lệ thuộc và có mối liên hệ với Chúa Jesus trong mọi sinh hoạt. Điều đó chứng minh rằng: mọi người cần được sự tha tội để nhận được sự cứu rỗi, vì mọi người đều là con của Đức Chúa Trời, mọi người đều là tội nhân cần được sự tha tội và được cứu rỗi.
Am lịch: người ta căn cứ vào mặt trăng để tính lịch.
Dương lịch: người ta căn cứ vào mặt trời để tính lịch.
Mặt trăng bản thân nó không có sự sáng, nhưng nó chỉ tiếp nhận ánh sáng từ mặt trời. Cho nên, âm lịch là căn cứ trong ban đêm.
Nhưng mặt trời là trái cầu lửa để phát ra ánh sáng soi vào mặt đất. Cho nên, trong phương diện thuộc linh: có 2 quyền lực là: Quyền lực của Đức Chúa Trời là sự sáng, nhưng quyền lực của ma quỉ là quyền lực của sự tối tăm. Cho nên, những đất nước lệ thuộc vào âm lịch, người ta xử dụng cho việc xem tử vi, xem bói, con người liên quan đến từ con vật, tính theo năm: Thìn Tỵ Ngọ,mùi, thân, dậu,tuất, hợi. v.v… từ đó, dẫn đến sự mê tín dị đoan. Nhưng Đức Chúa Trời là sự sáng, sự giáng sinh của Chúa Jesus đến thế gian, Lời Chúa phán : “Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người…Sự sáng nầy là sự sáng thật khi đến thế gian soi sáng mọi người”(Giăng 1:4,9).
Chúa Jêsus chịu đóng đinh trên thập tự giá bày tỏ tình thương của Đức Chúa Trời:
Dưới sự cai trị của đế quốc La Mã , đóng đinh trên cây thập tự là phương cách tử hình kẻ tử tội gian ác nhất luật hình này chỉ áp dụng cho những người là dân tọc bị trị. Đó là cách tử hình hành hạ tên tử tội một cách đau đớn cho đến chết. Trong thời điểm đó, người ta gọi thập giá là thập ác, mọi người đều ghê tởm, khinh bỉ, Nhưng để giải quyết tội của con người với Đức Chúa Trời, Chúa Jesus đã bằng lòng chịu đóng đinh trên cây thập tự . Từ đó cây thập tự đã trở thành biểu tượng của tình yêu (dấu chữ thập đỏ: biểu tượng cho bệnh viện, nhà thương. Cơ quan từ thiện quốc tế là hội hồng thập tự ). Hình ảnh cây thập tự luôn có hai chiều , chiều đứng là giải quyết tội của con người với Đức Chúa Trời. Chiều ngang là để giải quyết tội của con người đối với con người. Hình ảnh thập tự cũng nói lên tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại. (Rô. 5:8-)
Điều đáng chú ý: trong lịch sử của loài người, dưới thời đế quốc La Mã mới có án tử hình theo cách này. Chúa Jesus phải chịu chết trên cây thập tự, có một ý nghĩa hết sức quan trọng là để giải quyết mối tương giao giữa Trời với người và giữa người với nhau.
Chứng minh Chúa Jêsus đã sống lại từ trong kẻ chết: để bảo đảm cho lời hứa của Ngài :
"Ai tin Con thì được sự sống đời đời" (Giăng 3:36).
"Ta là sự sống lại và sự sống, kẻ nào tin ta thì sẽ sống mặc dầu đã chết rồi" (Giăng 11:25).
Hơn hết các giáo chủ tôn giáo thế gian, Chúa Jesus duy nhất chết sau ba ngày Chúa sống lại.
Có nhiều chứng cớ để chứng minh sự sống lại của Chúa Jesus
- Ngôi mộ trống hiện còn ở Do Thái.
- Lời Thiên sứ phán được chép lại trong kinh thánh. ( Mathio 28: 3-7)
- Chúa Jesus hiện ra cho Mari mađơlen, cho các sứ đồ, (Giăng 20:19-31; I co6r. 15:4-8). môn đồ đã chứng kiến và họ đã sẵn sàng chết để chứng minh cho sự kiện Chúa sống lại.
Nhưng tất cả những sự kiện đó chưa đủ thuyết phục để người ta tin Chúa Jesus sống lại. Ngay cả khi các môn đồ thấy Chúa sống lại nói với Thô Ma mà ông cũng không tin. Ngôi mộ trống lúc bấy giờ cũng có tin đồn là môn đồ lấy cắp xác Chúa Jesus rồi phao tin Chúa sống lại. (Mác 16:11-13). Nếu chúng ta chỉ nói đến các môn đồ đã thấy Chúa Vì đó chỉ là những nhân chứng của quá khứ. Nhưng Chúa Jesus đã sống lại và Ngài đang sống và hiện diện với các môn đồ cho đến ngày tận thế. (Ma thi ơ 28:19-20) Để chứng minh sự sống của Chúa Jesus, chỉ có dấu kỳ phép lạ. Các môn đồ đã lấy những quyền phép rất lớn mà làm chứng về sự sống lại của Chúa Jesus (Công vụ 4:33). Chúa sống, Chúa cùng làm việc với các môn đồ lấy dấu kỳ phép lạ làm cho vững đạo( Mác 16:20).
Vì Chúa Jesus hôm qua ngày nay và cho đến đời đời không hề thay đổi. (Hêb.13:8) phép lạ chỉ cho những người nào tin Chúa thật sống lại và đang sống với mình. Khi có sự hiện diện của Chúa Jesus, đời sống được thay đổi, Được sự bình an, vui mừng. Người tin kinh nghiệm nhân danh Chúa Jesus đuổi quỉ, giải phóng những nô lệ, nghiện ngập không còn cai trị nữa. Nhân danh Chúa đặt tay trên kẻ đau, kẻ đau được lành. (Mác 16:17-18) chứng nhân cần có kinh nghiệm thực tế để chứng minh. Như vậy, Chúa Jêsus đang sống và đang hiện diện với Hội Thánh.
Hiện nay nhiều phép lạ đã xảy ra chứng minh Chúa Jesus đang sống. Sự sống của Ngài biểu lộ quyền năng cho người có lòng tin. sự hiện diện của Ngài trên đất có liên hệ với tất cả mọi người trên thế giới.
Đọc tiếp:
Chương 2 .TRUYỀN GIÁO CÁC TÔN GIÁO
VI.Chủ nghĩa hiện sinh